Osho
kính yêu,
Thiền
thực sự tác động như thế nào? Làm sao người ta có thể đạt tới trạng thái thiền
thường xuyên? Và theo cách nào mà thực hành kundalini có quan hệ với thiền?
Thiền là cuộc
phiêu lưu, cuộc phiêu lưu vào trong cái chưa biết - cuộc phiêu lưu lớn nhất mà
tâm trí con người có thể tiến hành. Và với cuộc phiêu lưu tôi muốn nói rằng bạn
không thể nào có học thức trong nó được. Trước hết, bạn không thể biết trước
điều gì cả. Chừng nào mà bạn còn chưa biết nó, bạn không thể biết nó
được. Mọi thứ được nói chung cuộc chẳng có nghĩa gì: chân lí vẫn còn không được
nói ra. Nhiều điều đã được nói, nhiều điều đã được nói về cái không; tuy nhiên,
không một lời về chân lí đã được thốt ra.
Chừng nào bạn
chưa biết nó, bạn không thể nào biết được nó. Nhưng đôi điều về nó là có
thể được chỉ ra. Nó sẽ chẳng bao giờ là vấn đề chính, nó không thể thế được.
Bản chất của sự vật là ở chỗ điều này là không thể được. Bạn không thể nói rằng
cái này là thiền. Tất cả những điều có thể là nói rằng cái này
không phải là thiền, cái này không là thiền, cái kia không là
thiền. Cái còn lại là thiền. Mà cái còn lại bị bỏ không được chỉ dẫn.
Có nhiều lí
do cho nó. Thiền là cái gì đó lớn lao hơn tâm trí. Nó không phải là cái gì đó
xảy ra trong tâm trí. Nó là cái gì đó xảy ra cho tâm trí, không phải
trong tâm trí; bằng không thì tâm trí sẽ có khả năng xác định nó, tâm trí sẽ có
khả năng biết nó, hiểu nó. Đấy không phải là cái gì đó xảy ra trong tâm trí,
nhưng cho tâm trí. Việc xảy ra giống hệt như cái chết xảy ra cho cuộc sống.
Cái chết
chưa bao giờ xảy ra trong cuộc sống, nó xảy ra cho cuộc sống.
Thiền giống hệt như cái chết cho tâm trí, như cái chết cho cuộc sống. Chúng ta
có thể nói rằng thiền là cái chết sâu hơn - không phải thể chất mà là tâm trí.
Cái chết càng sâu, khả năng được tái sinh càng sâu. Khi có cái chết thể chất,
bạn sẽ được tái sinh về thể chất. Nhưng chừng nào còn liên quan tới bạn,
chẳng cái gì sẽ xảy ra cả, chẳng cái gì. Bạn sẽ vẫn còn lại như cũ - cũng cái
liên tục ấy, cũng con người cũ.
Cái chết
càng sâu, phục sinh càng sâu. Nếu bạn chết về mặt tâm lí, nếu tâm trí chết, thế
thì bạn được tái sinh. Và tái sinh này không chỉ như tái sinh thể
chất... vì thế thì thân thể được thay thế; một thân thể mới thay thế nó. Nhưng
khi có cái chết tinh thần, tâm lí, tâm trí không được thay thế. Tâm thức còn
lại không có tâm trí.
Cho nên
thiền là tâm thức không có tâm trí - bầu trở rộng mở không có bất kì bức tường
nào bao quanh nó. Chúng ta có thể phá huỷ những bức tường của ngôi nhà này,
nhưng không phá căn phòng, vì ‘phòng’ không có nghĩa nào khác ngoài không gian.
Cho nên bây giờ phòng sẽ là không gian phòng. Phòng sẽ có đó dưới bầu trời rộng
mở. Tất nhiên bạn sẽ không còn thấy nó như căn phòng, vì bây giờ bạn không thể
nào xác định được nó, nó đã trở thành một với bầu trời. Nhưng phòng có đó còn
hơn trước đây, chỉ tường là không có. Cho nên nếu bạn định nghĩa căn phòng là
không gian phòng, cái trống rỗng giữa những bức tường, thế thì không có tường,
phòng vẫn có đó. Nó sẽ trở nên lớn hơn, vô hạn. Cho nên khi tâm trí chết - khi
tôi nói tâm trí chết, tôi chỉ ngụ ý bức tường của tâm trí - cái trống rỗng bên
trong không gian này vẫn còn lại, trở nên lớn hơn. Đó là tâm thức.
Phân biệt đi.
Tôi gọi cái trống rỗng bên trong, là tâm thức, còn bức tường vây quanh nó, là
tâm trí. Hay bạn có thể nói điều đó như thế này: tâm trí với chữ ‘t’ nhỏ thì
chết, còn tâm trí với chữ ‘T’ hoa, tiếp tục sống. Thế thì nó không phải là tâm
trí của bạn, nó không thể là của bạn được. Nếu những bức tường này bị
loại bỏ, căn phòng này sẽ không là tâm trí. Căn phòng sẽ có đó, nhưng nó sẽ
không là tâm trí, vì tâm trí chỉ có thể là bức tường, tâm trí chỉ có thể là
giới hạn. Cái trống rỗng thuần khiết này không thể là tâm trí. Cho nên tâm trí
với chữ ‘t’ nhỏ chết đi, còn tâm trí với chữ ‘T’ hoa có đấy; bạn không có đấy.
Và bạn không bị thay thế bởi một tâm trí khác. Bạn không bị thay thế chút nào.
Thiền là cái
chết tinh tế - cái chết sâu sắc của bạn, tâm trí bạn, bản ngã bạn, của tất cả
những cái làm cho bạn thành xác định. Nhưng cái ở bên trong vẫn còn lại. Đó là
tâm thức thuần khiết.
Cho nên
trước hết, những bức tường của tâm trí, các quá trình tinh thần, không phải là
thiền. Chúng là chướng ngại. Những bức tường của tâm trí là gì? Tâm trí đã xác
định chính nó như thế nào? Nó đã trở thành vật bị giới hạn như thế nào? Đâu là
các biên giới, bức tường, mà bởi chúng tâm trí đã trở thành bị tách biệt khỏi
Tâm trí?
Có ba điều:
thứ nhất là kí ức. Phần lớn hơn của tâm trí là kí ức. Và kí ức này là kí ức
dài, nó ghi lại tất cả những kiếp sống vô hạn mà bạn đã sống. Tâm trí tích luỹ
mọi thứ, không chỉ những cái bạn đã thu thập một cách có ý thức. Khi bạn ngủ,
tâm trí vẫn thu thập. Thậm chí khi bạn đang trong cơn mê sảng, hoàn toàn vô ý
thức, tâm trí vẫn đang thu thập. Tâm trí cứ thu thập, chẳng cái gì thoát khỏi
nó. Tâm trí vô thức là bức Trường thành kí ức lớn - bức trường thành rất dài.
Tâm trí này
không chỉ là một phần của bộ óc bạn, nhưng trong thực tế là một phần của từng
và mọi tế bào của con người bạn, của từng và mọi tế bào của thân thể bạn. Đó là
lí do tại sao hai mươi bốn tế bào nam tính và hai mươi bốn tế bào nữ tính bắt
đầu tạo nên bạn. Chúng có một chương trình dựng sẵn, chúng có một kí ức dựng
sẵn. Rồi một ngày nào đó chúng ta sẽ có khả năng biết kiểu mũi nào bạn sẽ có
ngay cả khi bạn còn trong bụng mẹ ngày đầu tiên. Cái trứng mới sẽ chỉ ra bạn sẽ
có kiểu mắt nào, bạn sống được bao nhiêu tuổi, bạn thông minh ra sao, bản ngã
bạn thế nào.
Tế bào trông
đơn giản thế lại phức tạp như bạn vậy. Nó là tất cả kí ức của toàn bộ giống
nòi; nó mang tâm trí tập thể. Và rồi linh hồn bạn, bản ngã bạn, tâm trí bạn,
thấm vào trong nó. Cho nên thân thể có kí ức của nó, còn tâm trí bạn có kí ức
của riêng nó. Bạn là chỗ giao đường - một tâm trí với biết bao nhiêu kí ức, và
một thân thể với biết bao nhiêu kí ức của toàn bộ giống nòi tập thể, toàn bộ
tâm trí tập thể. Kí ức thân thể là mạnh hơn tâm trí, cho nên bạn bao giờ cũng
là nạn nhân của chúng. Dù bạn có thể nghĩ chống lại chúng, khi khoảnh khắc tới,
thân thể vẫn thắng. Tâm trí bạn chẳng là gì trước nó cả, vì nó là tâm trí giống
nòi. Đó là lí do tại sao tất cả các tôn giáo đều bị sập bẫy khi họ bắt đầu đấu
tranh với thân thể. Bạn không thể đấu tranh với nó được. Nếu bạn bắt đầu đấu
tranh với nó, bạn sẽ chỉ làm phí hoài cuộc sống mình.
Bạn không
thể đấu tranh với thân thể bởi vì, trong thực tế, đấy là giống nòi - mà cũng
không chỉ là giống nòi, nó còn là toàn bộ lịch sử của bản thân loài người nữa.
Mọi thứ vẫn cứ sống trong bạn; mọi thứ đã tồn tại vẫn cứ sống trong thân thể
bạn. Cái ta của riêng bạn mang mọi thứ bên trong nó. Đó là lí do tại sao đứa
trẻ trong bụng mẹ phải trải qua tất cả các giai đoạn mà loài người đã trải qua
trong tiến hoá.
Chín tháng
ấy trong bụng mẹ là toàn bộ sự tiến hoá được nén lại. Người ta bắt đầu chỉ như
một con amip, tế bào nguyên thuỷ đầu tiên. Người ta bắt đầu như trong cùng tình
huống với con amip đã bắt đầu trong nước biển. Bụng mẹ chứa cũng điều kiện hoá
học như nước biển. Nước ối bụng mẹ mà trong đó tế bào này bơi lội có cùng thành
phần như nước biển, đích xác hệt như vậy.
Trong bụng
mẹ, sự tiến hoá lại bắt đầu. Tất nhiên, đó là sự tiến hoá thu nhỏ. Nhưng toàn
bộ sự việc phải bắt đầu lại, vì tế bào có kí ức, nó không thể làm khác đi được.
Nó sẽ lại phải trải qua cùng quá trình. Thời gian sẽ ngắn. Con amip phải trải
qua một triệu năm, thế thì nó mới có khả năng tới trái đất từ biển. Tế bào này,
cái trứng này bên trong bụng mẹ, sẽ trải qua trong một tuần lễ. Nhưng trong bẩy
ngày này sẽ có cùng sự tiến hoá, được nén lại từ một triệu năm, và cùng các
giai đoạn. Chín tháng này là sự tiến hoá được nén lại, và tế bào này có một
chương trình dựng sẵn.
Cho nên theo
một cách nào đó thân thể bạn là toàn bộ sự tiến hoá. Trong một trạng thái
nguyên tử, được nén lại, thân thể có kí ức của riêng nó. Người ham muốn, khao
khát vào việc thiền trước hết sẽ phải hiểu kí ức thân thể mình, kí ức lí sinh.
Đừng đấu tranh với nó. Nếu bạn bắt đầu đấu tranh bạn đang đi sai bước rồi; bạn
sẽ ngày càng rối loạn hơn. Hợp tác đi, không có cách nào khác. Để thân thể hoàn
toàn thoải mái. Đừng tạo ra bất kì căng thẳng nào giữa bạn và thân thể. Đấu
tranh thực sự của bạn không phải là với thân thể, không phải là với kí ức thân
thể, mà là với kí ức bản ngã - tâm lí của bạn, tâm trí của bạn. Và đó là một
việc khác, hoàn toàn khác. Cho nên đừng đấu tranh với thân thể.
Khi chúng ta
đấu tranh với thân thể, chúng ta chẳng bao giờ có thời gian để đấu tranh với
tâm trí. Và nếu chúng ta bắt đầu đấu tranh với thân thể, nó sẽ cứ tiếp diễn
mãi. Nó sẽ là việc tự tử, nó sẽ là việc huỷ diệt, nó sẽ chỉ gieo hạt cho thất
bại của riêng nó. Người ta chắc chắn sẽ bị đánh bại - một tế bào đấu tranh với
toàn thể loài người, đấu tranh với toàn thể nhân loại như thế; điều đó là không
thể được.
Cho nên đừng
lấy kí ức của thân thể làm kí ức của bạn. Chẳng hạn, đói là một kí ức thân thể.
Bạn có thể đấu tranh với nó, nhưng việc thắng sẽ vô cùng khó khăn, rất gay go,
gần như không thể được. Nếu bạn thắng, thắng lợi của bạn sẽ là thất bại toàn
bộ, vì nếu bạn có thể thắng cái đói của mình bạn đã lấy một bước tự tử rồi.
Trong vòng chín mươi ngày bạn sẽ chết. Thậm chí thân thể cũng sẽ không báo cho
bạn rằng bây giờ là lúc nuôi dưỡng nó nữa. Cho nên điều tốt là bạn chẳng bao
giờ thắng nó cả, nếu không đấy sẽ là tự tử. Thế thì giữa bạn và kí ức thân thể
bạn sẽ không có cầu nối. Đó là cách duy nhất để thắng - nhưng bạn không thực sự
thắng, bạn đang sát hại bản thân mình.
Cho nên có
những phương pháp mà có thể phá vỡ cây cầu nối giữa bạn và thân thể bạn. Có
những phương pháp, biết bao nhiêu phương pháp hatha yoga để phá vỡ cây cầu này.
Thân thể cứ kêu đói, đói, đói... nhưng bạn chẳng bao giờ biết, cây cầu đã gẫy.
Thân thể cứ kêu cứu, nhưng bạn chẳng bao giờ biết về điều ấy, bạn trở thành
không nhạy cảm với nó. Đừng bao giờ thực hành bất kì cái gì làm cho thân thể
bạn hay bạn thành không nhạy cảm, vì thiền là nhạy cảm toàn bộ.
Khi bạn trở
nên thiền, thân thể bạn sẽ trở thành nhạy cảm đến thế - bạn không thể nào quan
niệm được bây giờ nội tạng thân thể bạn lại nhạy cảm đến đâu. Chúng ta chưa bao
giờ nghe đúng, chúng ta chưa bao giờ thấy đúng - chỉ làng nhàng thôi. Bạn đi
qua vườn, bạn dường như nhìn nhưng bạn chỉ ngó qua, bạn không thấy. Mắt đã trở
nên không nhạy cảm, bạn đã đánh nhau với mắt. Thân thể đã trở nên không nhạy
cảm, bạn đã đánh nhau với thân thể.
Toàn bộ nền
văn hoá đang chống lại thân thể - toàn bộ nền văn hoá này, dù nó ở đâu, Đông
hay Tây, cũng chẳng khác biệt gì. Nền văn hoá đã phát triển trên hành tinh này,
theo một cách nào đó, là bệnh tật. Nó chống lại thân thể, mà thân thể là điều
bí ẩn vĩ đại. Nếu bạn cứ chống lại thân thể, thế thì theo một cách nào đó bạn
đã đi chống lại vũ trụ; nó là vũ trụ thu nhỏ. Mối quan hệ của bạn với vũ trụ,
cây cầu của bạn tới vũ trụ, công cụ của bạn với vũ trụ, tất cả đều thông qua
thân thể. Thân thể bạn chỉ là trạm trung chuyển.
Cho nên đừng
đánh nhau với thân thể. Bao giờ cũng phân biệt rõ kí ức thân thể là gì và kí ức
tâm trí là gì. Đói là kí ức thân thể, và bạn có thể biết nó. Nhưng tâm trí cũng
có kí ức riêng của nó. Chúng không mang tính tồn tại; thực tế chúng không có
giá trị cho sự tồn tại. Kí ức thân thể có giá trị cho sự tồn tại, và đó là phân
biệt cơ bản. Nếu bạn phủ nhận kí ức thân thể, nếu bạn đấu tranh chống lại chúng,
bạn sẽ không tồn tại. Nhưng kí ức tâm lí thực sự không có giá trị cho sự tồn
tại. Chúng đơn giản là tích luỹ phí hoài - cái gì đó cần phải vứt đi nếu bạn đã
tích luỹ nó, cái gì đó cần phải vứt đi. Bạn chỉ làm mình nặng gánh với nó. Và
kí ức tâm trí này dài lắm.
Bất kì khi
nào bạn đang trong giận dữ, đều có hai khả năng: nó có thể là kí ức thân thể,
nó có thể là kí ức tâm trí. Bạn phải phân biệt được giữa chúng. Nếu giận dữ của
bạn có giá trị cho sự tồn tại, nếu bạn không thể tồn tại được mà thiếu nó, thế
thì nó là một trung gian thân thể. Nhưng nếu cơn giận dữ của bạn không có giá
trị cho sự tồn tại, thế thì nó chỉ là thói quen của tâm trí, chỉ là một sự lặp
lại máy móc của tâm trí. Thế thì nó là kí ức tâm trí. Bạn đã từng giận dữ biết
bao nhiêu lần, nó đã trở thành một ước định với bạn. Bất kì khi nào ai đó chỉ
đẩy bạn một cái, chỉ nhấn vào một nút, bạn giận dữ liền. Cho nên nhận biết đi.
Một người
chẳng bao giờ giận dữ về mặt tinh thần, không có giận dữ theo thói quen... cái
giận dữ thân thể của người đó có cái đẹp của riêng nó. Nó sẽ không bao giờ xấu
cả. Thế thì nó sẽ chỉ nghĩa là ai đó đang sống, không chết. Nhưng bạn càng giận
dữ theo thói quen, bạn càng ít có khả năng giận dữ thân thể, và cơn giận dữ của
bạn sẽ xấu. Nó sẽ chẳng thêm được gì cho bạn, nó sẽ chỉ quấy nhiễu bạn và người
khác.
Chúng ta
cũng có thể hiểu nó từ con đường khác, chẳng hạn, từ dục. Nó có thể là kí ức
thân thể, thế thì nó có giá trị cho sự tồn tại. Nhưng nó có thể chỉ thuộc vào
não, tinh thần, chỉ từ thói quen. Thế thì nó không có giá trị cho sự tồn tại.
Và người đã bị sập bẫy trong hình mẫu thói quen, dục của người đó sẽ trở thành
điều xấu xí. Nó sẽ chẳng có tình yêu gì, mà nó cũng chẳng có cái đẹp nào. Nó sẽ
chẳng có âm nhạc nào, nó sẽ chẳng có bất kì đáp ứng sâu sắc nào. Dùng càng
nhiều tính chất não, thân thể bạn càng ít khả năng. Bạn sẽ nghĩ về nó nhiều
hơn, và bạn sẽ không thể nào biết được nó đích thực là gì, bí ẩn sâu xa nhất
của nó là gì. Tâm trí cứ sẽ nghĩ mãi về dục, còn thân thể phải tuân theo tâm
trí. Và bất kì khi nào thân thể tuân theo tâm trí, không có sự sống trong đó;
nó chỉ bị kéo lê đi như một vật nặng chết.
Nó có thể là
bất kì cái gì - dục hay giận hay tham. Bao giờ cũng phân biệt xem liệu nó có
giá trị cho sự tồn tại hay không; thế thì bạn không phải đấu tranh với nó. Nếu
nó chỉ là thói quen tinh thần, thế thì nhận biết về nó. Kí ức tinh thần này của
tất cả các hành động quá khứ của chúng ta đã trở thành ước định: bạn cứ lặp lại
chúng, bạn hành động hệt như cái máy. Có ý thức về điều này đi. Bạn sẽ ngạc
nhiên mà biết rằng, nếu không có tâm trí trong cơn giận của bạn và nếu nó chỉ
là sự đáp ứng toàn bộ cho một tình huống với toàn bộ thân thể trong đó và không
có tiền điều kiện tinh thần, thế thì sẽ không có ân hận. Bạn đã hành động toàn
bộ trong tình huống ấy, khi tình huống yêu cầu. Thế thì chẳng cần phải ân hận
chút nào.
Một điều
khác: khi không có ân hận, sẽ không có tích luỹ tâm lí. Chẳng cái gì sẽ là thói
quen với bạn cả. Bạn không cần tích luỹ bất kì cái gì. Tại sao tâm trí cần tích
luỹ kí ức? Vì nó không tin liệu nó có thể hành động toàn bộ trong một tình
huống hay không. Nó chuẩn bị, nó phải trải qua biết bao nhiêu cuộc diễn tập.
Nếu có một tình huống như thế này thế nọ, nó không tin vào điều nó sẽ làm. Nó
phải biết tất cả những điều đã xảy ra, nó phải sắp xếp mọi sự lại, nó phải lên
chương trình về điều cần làm trong một tình huống đặc biệt. Đó là lí do tại sao
tâm trí cứ tích luỹ kí ức, và nó tích luỹ càng nhiều, bạn càng ít khả năng hành
động một cách toàn bộ. Và bạn càng ít khả năng hành động toàn bộ lại càng cần
nhiều đến tâm trí.
Cho nên hành
động với thân thể, đừng hành động với tâm trí. Điều này trông có vẻ kì lạ,
giống như một điều gì đó chưa từng được trông đợi tới từ người tôn giáo - hành
động từ thân thể. Thế thì hành động này là không thể đo lường được, đáp ứng là
hoàn toàn. Đừng để tâm trí mình len vào. Thế thì sẽ không có kí ức, sẽ không có
tích luỹ tâm trí, sẽ không có ân hận. Hành động chỉ thoảng qua. Mọi thứ vẫn như
vậy, tình huống vẫn như vậy, bạn đã hành động một cách toàn bộ mà không phần
nào còn lại đằng sau. Cho nên không ai bị ân hận cả. Bạn đã toàn bộ trong nó
rồi. Ngược lại, phần đã bị từ chối sẽ ân hận về sau.
Thân thể có
thể hành động toàn bộ; tâm trí chẳng bao giờ hành động toàn bộ. Tâm trí bao giờ
cũng chia rẽ, tâm trí vận hành trong phân đôi. Cho nên một phần của tâm trí
giận dữ, phần kia lại đồng thời ân hận hay chuẩn bị ân hận. Điều này cũng nên
được chú ý - bất kì khi nào có phần này thường xuyên chống lại phần kia, biết
rằng bạn đang hành động qua tâm trí, không qua thân thể. Thân thể bao giờ cũng
là toàn bộ; nó không thể hành động một cách phân chia. Thân thể chỉ là một
luồng, không có phân chia. Khi bạn trong tình yêu, đấy là toàn bộ thân thể đã
rơi vào trong tình yêu. Bạn không thể tạo bất kì phân biệt nào, rằng đầu đã yêu
hay tay đã bắt đầu yêu. Toàn bộ thân thể là ở trong nó. Nhưng tâm trí chẳng bao
giờ có thể là toàn bộ trong bất kì cái gì. Một phần của nó bao giờ cũng chỉ
trích, phán xét, chỉ huy, khen ngợi; một phần của nó bao giờ cũng sẽ ngồi đó
trong ghế để phán xét, để kết án. Cho nên bất kì khi nào bạn thấy rằng phần nào
đó của tâm trí bạn đang làm việc chống lại hành động, biết rằng bạn đang làm
việc trí não, tâm trí.
Bạn bắt đầu
làm các việc bằng thân thể. Khi bạn ăn, ăn bằng thân thể. Thân thể biết rõ khi
nào phải dừng, nhưng tâm trí chẳng bao giờ biết. Một phần sẽ cứ ăn còn phần kia
sẽ cứ kết án. Một phần sẽ cứ nói dừng lại đi, còn phần kia sẽ cứ ăn. Thân thể
là toàn bộ, cho nên bạn hỏi thân thể. Đừng hỏi tâm trí liệu có ăn hay không ăn,
có dừng hay không dừng. Thân thể bạn biết điều nó cần. Nó đã tích luỹ trí huệ
của hàng thế kỉ. Nó biết khi nào phải dừng.
Đừng hỏi tâm
trí, hỏi thân thể. Dựa vào trí huệ của thân thể. Thân thể khôn ngoan hơn bạn,
nhưng, tất nhiên, chúng không nghĩ. Khoảnh khắc chúng nghĩ, chúng sẽ lại như
chúng ta. Đây là điều kì diệu: rằng loài vật có thể sống khôn ngoan hơn con
người! Điều này có vẻ vô lí. Chúng biết gì đâu, nhưng chúng cứ sống thông minh
hơn nhiều. Khả năng duy nhất mà trong đó con người đã trở nên hiệu quả là can
thiệp vào mọi thứ. Bạn cứ can thiệp vào thân thể mình. Đừng can thiệp, để cho
thân thể làm việc. Đừng chen vào cách thức của nó, và thế thì bạn sẽ có phân
biệt rõ ràng về cái gì là kí ức tâm trí và cái gì là kí ức thân thể.
Kí ức trong
thân thể là sự hỗ trợ cho việc tồn tại; kí ức tâm trí là sự cản trở. Kí ức tâm
trí này chỉ định phá huỷ. Khi tôi nói phá huỷ, tôi không ngụ ý rằng bạn sẽ
không nhớ điều gì. Trong thực tế, khi tôi nói phá huỷ kí ức, tôi muốn nói rằng
bạn không nên tự đồng nhất mình với kí ức này, bạn không nên trở thành một với
nó. Kí ức này phải không là việc tự trị, nó phải không nhớ mãi.
Nó cứ nhớ
mãi chính nó. Bạn đang ngồi, và kí ức đang làm việc. Bạn đang ngủ, và kí ức
đang làm việc. Bạn đang làm việc, và kí ức cũng đang làm việc. Kí ức liên tục
làm việc. Nó đang làm gì? Kí ức có thể làm gì? Nó chỉ có thể ham muốn cùng thứ
cho tương lai. Nó không thể làm cái gì khác được. Nó có thể nhớ mãi và phóng
chiếu bản thân nó vào trong tương lai: “Tất cả những cái đã có phải có nữa, hay
cái gì đó đã có phải không có nữa.” Kí ức bao giờ cũng thêu dệt hình mẫu cho
tương lai quanh bạn. Và một khi bạn cho phép nó thêu dệt hình mẫu cho bạn, bạn
sẽ chẳng bao giờ được tự do. Bạn bao giờ cũng sẽ ở trong hình mẫu.
Hình mẫu này
thiết lập nên những bức tường bao quanh cái trống rỗng của tâm thức. Trước khi
bạn tiến một bước vào tương lai, kí ức đã tiến nhiều bước. Con đường đó không
phải là một con đường mở, nó đã trở thành tù đày, kí ức bao giờ cũng làm hẹp nó
lại. Nhưng chúng ta bị nó lừa dối vì chúng ta nghĩ rằng kí ức đang giúp chúng
ta sống tương lai tốt hơn. Nó chẳng giúp gì cả, nó chỉ giúp bạn làm cho tương
lai của bạn giống như quá khứ.
Kí ức không
thể phóng chiếu bất kì cái gì mà nó chưa từng biết. Nó chỉ có thể phóng chiếu
cái đã biết - nó sẽ phóng chiếu cái đó. Đừng bị mắc bẫy. Đừng cho phép tâm trí
phóng chiếu cho tương lai dù chỉ một khoảnh khắc. Tất nhiên, sẽ phải mất thời
gian để không có thói quen chết người này. Việc bắt đầu nhận biết về nó là
thiền. Và một khi bạn nhận biết, hoàn toàn nhận biết, mạnh mẽ nhận biết, tỉnh
táo, kí ức sẽ không thêu dệt tương lai cho bạn nữa; nó chỉ có thể thêu dệt khi
bạn đang mơ.
Mơ là điều
kiện cơ sở cho kí ức vận hành. Đó là lí do tại sao, trong khi ngủ, nó tạo ra
những giấc mơ như thật - còn thật hơn cả thực tại nữa. Khi bạn chỉ ngồi đấy
trong chiếc ghế dễ chịu của mình, thế thì có mơ ngày, có mơ. Chỉ là một giấc
ngủ tí chút, và kí ức bắt đầu thêu dệt, bắt đầu phóng chiếu. Tỉnh táo, có ý
thức, và kí ức sẽ dừng làm việc cho tương lai. Tỉnh táo, tỉnh táo hơn với bên
trong và bên ngoài, là sự bắt đầu cho thiền.
Cái tỉnh táo
này có thể được tạo ra theo biết bao nhiêu là cách. Bằng cách bảo bạn tỉnh táo
tôi biết rằng bạn không sắp trở nên tỉnh táo đâu. Bạn chỉ mới nghe điều này
trong trạng thái mơ, còn kí ức sẽ phóng chiếu: “Đúng, ngày mai mình sẽ tỉnh
táo.” Và kí ức sẽ làm việc trên điều này mà làm cho nó thành một phóng chiếu.
Bạn sẽ nói, “Đúng, đôi khi mình sẽ tỉnh táo.” Và nếu tôi nói rằng hạnh phúc đi
sau tỉnh táo, nếu tôi nói rằng phúc lạc chắc chắn tới cho bạn qua việc tỉnh táo,
bạn sẽ càng mơ hơn, và kí ức sẽ phóng chiếu các sự kiện.
Chỉ bảo bạn
tỉnh táo sẽ chẳng làm cho bạn thành thiền được; nó sẽ không tạo ra bất kì khác
biệt gì. Cho nên tôi tạo ra các phương sách, tôi tạo ra tình huống trong đó bạn
không thể đừng được mà phải tỉnh táo, những tình huống trong đó mơ là điều
không thể được.
Tôi sẽ kể
cho bạn đôi điều... Mơ trở thành có thể nếu có nhiều khí cácbôníc quanh bạn;
bạn sẽ nhiều mơ hơn. Đó là lí do tại sao bạn ngày bạn không thể mơ nhiều như
ban đêm. Thành phần hoá học thay đổi. Ban đêm có nhiều cácbôníc trong không khí
hơn và ít ô xi hơn. Cho nên nếu điều ngược lại là có thể, nếu ô xi trong bạn và
quanh bạn nhiều hơn, còn cácbôníc bị vứt đi, bạn không thể nào mơ được. Đó là
lí do tại sao tôi cứ nhấn mạnh vào việc thở mạnh mẽ. Nó chẳng là gì khác ngoài
ngoài một phương sách để thay đổi bầu không khí hoá học trong bạn. Ô xi phải có
đó nhiều và nhiều hơn. Càng nhiều ô xi, bạn càng ít thành nạn nhân của giấc mơ.
Và kí ức của bạn không thể làm việc mà không có trung gian mộng mị.
Vào buổi
sáng chúng ta cảm thấy tươi tắn. Điều gì xảy ra vào buổi sáng với mặt trời mọc?
Cácbôníc giảm đi còn ô xi tăng lên. Cho nên cùng thay đổi hoá học ấy là cần cho
bên trong bạn. Kĩ thuật mà chúng ta dùng trong các trại thiền ngày nay là
phương pháp mạnh mẽ nhất để tạo ra ô xi quá mức trong thân thể. Và sau ba giai
đoạn đầu này, trong giai đoạn thứ tư, học viên trở nên được tích đầy với năng
lượng sống mênh mông làm cho người đó thành tỉnh táo.
Một phương
sách khác để làm bạn tỉnh táo là thực hành kundalini. Đấy là một hệ thống để
biến đổi năng lượng dục thành thiền và nhận biết. Nó có ích cho người có năng
lượng dục có thể chuyển kênh dễ dàng và tự nhiên sang các mục tiêu thiền. Trong
thời của kinh Veda và Upanishad, ở Ấn Độ cổ đại, người ta đơn giản và tự nhiên
và họ có thể dễ dàng chuyển đổi năng lượng dục của mình. Với họ, dục không phải
là vấn đề tâm trí chút nào, nó không phải là một vấn đề chút nào. Một khi nó là
vấn đề nó trở thành vấn đề tâm trí.
Ngày nay,
thế giới hiện đại bị hư hỏng về mặt dục và bị khai thác về mặt dục đến mức mà
kundalini - việc chuyển vận của năng lượng tâm lí theo một kênh tâm lí đặc biệt
- đã trở thành khó khăn. Nhưng qua phương pháp này, đôi khi người ta cảm thấy
kundalini dâng lên. Đó là vấn đề khác. Nếu ai đó cảm thấy kundalini của mình
dâng lên, thế thì tôi bắt đầu làm việc với kundalini của người đó, thế thì tôi
bắt đầu trao cho người đó các kĩ thuật để làm việc với nó. Nhưng chừng nào mà
chưa có cảm giác tự phát về kundalini, tôi thậm chí sẽ không động chạm đến điểm
ấy. Tôi sẽ không nói về nó. Bạn có thể bỏ qua nó, và thời đại này là thời đại
mà bạn sẽ phải bỏ qua nó. Chỉ với dục tự nhiên, thể chất, với vô trí trong nó,
kundalini mới làm việc - với tâm trí hồn nhiên nó mới có thể làm việc.
Đâu đó trên
đường, khi bạn đã đi sâu hơn vào trong thiền, tâm trí bạn mất sự nắm bắt của
nó. Như tôi đã nói với bạn, khi bạn đi sâu hơn vào trong thiền, thế thì bạn
phân biệt giữa kí ức thân thể và kí ức tâm trí. Khi có phân biệt và tách bạch
của hai kí ức này, thế thì bạn trở nên ngày càng ít tâm trí về thân thể hơn và
để cho thân thể tự vận hành qua trí huệ riêng của nó.
Thế thì đôi
khi kundalini sẽ trở nên tích cực. Cho nên nếu nó làm việc một cách tự động, thế
thì đấy là tốt. Tôi sẽ không cho phép trực tiếp thực hành nó. Một cách gián
tiếp, nó tới làm việc cho chính nó. Và nó tới bao nhiêu lần rồi - ít nhất ba
mươi đến bốn mươi phần trăm người đang làm việc theo phương pháp này đều cảm
thấy kundalini. Khi họ cảm thấy nó, thế thì tôi sẵn sàng, thế thì họ có thể
tiến hành. Thế thì qua phương pháp này họ tiến hành qua cánh cửa kundalini.
Nhưng phương pháp này chỉ được gắn gián tiếp với kundalini, không trực tiếp.
Trong chừng mực
còn liên quan tới tôi, không có tương lai cho các phương pháp kundalini trực
tiếp, chừng nào mà toàn bộ thế giới còn chưa coi dục như một hiện tượng tự
nhiên. Và không có kĩ thuật kundalini nào được dùng trước khi chín muồi dục.
Chừng nào mà dấu vết cho kundalini còn chưa được tạo ra bên trong bạn trước khi
chín muồi dục, có mọi khả năng - cho dù dục có được coi là tự nhiên - rằng bạn
có thể không biến thành kẻ hư hỏng mà bạn sẽ biến thành hệt như một con vật.
Tôi sẽ kể
cho bạn một câu chuyện trong Upanishads...
Một rishi,
hiền giả, đang ngồi cùng vợ và con. Một người đàn ông đi qua đó và phải lòng cô
vợ. Người đó mời cô ấy đi cùng về nhà người đó. Người vợ đi liền với người đàn
ông này. Không một lời chỉ trích hay phản đối nào từ phía rishi, nhưng đứa con trở
nên giận dữ và nó nói với bố nó, “Điều này chỉ là thú vật. Điều này giống hệt
như con vật làm. Điều này không thể được phép. Khi con làm ra bộ luật đạo đức,
con sẽ không cho phép điều này. Điều này hệt như con vật làm.” Người bố nói,
“Điều này không giống con vật làm đâu. Nhưng ngược lại, cơn điên dại của con,
cơn giận dữ của con, giống hệt con vật làm đấy. Đấy chỉ là phóng chiếu của bạo
hành đạo đức, giống hệt con vật. Trong thực tế không con vật nào sẽ cho phép
điều vừa xảy ra, nó sẽ đánh nhau.”
Thái độ này,
thái độ của người bố này, thực sự là thái độ cao thượng hơn. Ông ta nói thái độ
của bạn giống như thái độ của con vật. Con vật đánh nhau vì đôi lứa của chúng.
Chúng có cảm giác lãnh thổ, sở hữu, và nếu bạn xâm phạm đến đó, chúng sẽ đánh.
Nhưng người bố nói, “Ta là con người. Nếu ai đó thấy mẹ con và phải lòng, chẳng
ai có lỗi cả. Và nếu mẹ con cũng sẵn sàng với người ấy, ta là ai? Ta đã yêu mẹ
con theo cùng cách. Vậy đâu có khác biệt. Cũng hệt như thế này mà ta đã yêu mẹ
con. Mẹ con đã đồng ý cưới ta, mẹ con đã đồng ý làm vợ ta, nhưng không phải là vật
sở hữu của ta. Ai đó khác đã yêu. Ta biết điểm yếu của con người vì ta biết bản
thân ta, ta cũng đã yêu bản thân ta, cho nên chẳng có gì sai xảy ra cả. Và ta
không phải là con vật, cho nên ta không thể đánh nhau vì điều này được. Ta biết người đó cũng là một con
người như ta. Và mẹ con đẹp, ta cũng đã từng yêu mẹ con.”
Nhưng đây là
đạo đức rất cao thượng, và điều này chỉ có thể đạt tới trước khi chín muồi dục
- nếu bạn đã rèn luyện, ngược lại không thể thế được. Sau khi chín muồi dục bạn
sẽ không thể nào đổi kênh năng lượng được nữa; điều ấy rất khó. Nhưng nếu các
kênh đều đã được chuẩn bị trước, thế thì năng lượng chỉ tuôn chảy trong chúng
tự nhiên như nó chảy trong dục.
Và người này,
người bố này, ông rishi này, phải đã biết về kundalini; nếu không thì ông ta
không thể như ông ấy lúc đó được, điều ấy không thể được. Ông rishi này đã có
phát triển kundalini - năng lượng đi lên - nếu không thái độ này sẽ chẳng bao
giờ tới.
Năng lượng đi
xuống bao giờ cũng hướng tới bạo hành. Năng lượng đi lên bao giờ cũng hướng tới
tình yêu, hiểu biết, từ bi.
Cho nên phương
pháp này là phương pháp gián tiếp. Nó làm việc qua bao nhiêu cánh cửa. Nếu có
thể dùng được kundalini của bạn, phương pháp này sẽ dùng nó. Nó sẽ chọn lấy con
đường của mình, nó là linh hoạt. Phương pháp này tuyệt đối linh hoạt. Nếu
kundalini của bạn sẵn sàng và không thể dùng nó được, nếu nó là nguy hiểm, nó
sẽ không dùng kundalini. Thế thì có các kênh khác, các con đường khác. Nó có
thể dùng con đường khác.
Những con đường
khác này là không có tên, vì không có giáo huấn cổ đại nào dùng chúng. Nhưng có
những con đường khác. Mahavira chưa bao giờ nói về kundalini cả, chưa bao giờ.
Phật chưa bao giờ nói về kundalini, chưa bao giờ. Christ chưa bao giờ biết tới
nó. Lão Tử chưa bao giờ nghe nói về nó. Họ đã tới qua những con đường khác.
Cách thức mà
Phật đi có thể đã không qua kundalini. Dục của ông ấy đã trở thành cực kì nhàm
chán cho ông ấy, ông ấy chẳng quan tâm gì tới dục nữa. Và điều đó chắc chắn đã
xảy ra, vì cha ông ấy đã thu xếp cho ông ấy biết bao nhiêu gái đẹp trong vương
quốc. Mọi gái đẹp đều trong lâu đài của ông ấy. Ông ấy chỉ trở nên chán ngấy.
Điều đó chắc chắn đã xảy ra; mọi người đều sẽ trở nên chán ngấy trong tình
huống như thế. Ông ấy đã trở nên chán ngấy với dục đến độ ông ấy không thể quan
niệm được rằng cùng năng lượng ấy có thể được chuyển đổi. Ông ấy chưa bao giờ
thử điều đó. Và thậm chí nếu ai đó có nói cho ông ấy rằng năng lượng dục có thể
trở thành năng lượng thiêng liêng, ông ấy cũng sẽ không nghe người đó vì ông ấy
đã biết dục quá nhiều, và chẳng có gì thiêng liêng về nó đối với ông ấy cả. Đấy
chỉ là xác thịt. Phật đã dùng con đường khác. Ông ấy không nói chút nào về
kundalini cả, nhưng ông ấy đã nói về các trung tâm, các luân xa. Ông ấy làm
việc trên các luân xa.
Nếu bạn làm
việc về kundalini, thế thì có quá trình dần dần. Kundalini là liên tục, nó có
sự liên tục giống như nhiệt kế. Nó dâng lên giống hệt như nhiệt kế, dần dần,
chậm chạp. Bước chuyển là từng bậc một. Phật chưa bao giờ dùng bước chuyển đó,
nhưng ông ấy nói về luân xa làm việc theo cái nhảy bất thần. Từ luân xa này
người ta nhảy sang luân xa khác. Không có sự liên tục, người ta chỉ nhảy. Bởi quá
trình nhảy này, Phật đã quan niệm về toàn bộ thế giới theo một cách rất mới. Ông
ấy nói rằng không có liên tục trong thế giới này, chỉ có bước nhảy.
Chẳng cái gì là
liên tục cả. Hoa không phải là sự liên tục của nụ; hoa là bước nhảy. Tuổi thanh
xuân không phải là sự liên tục của tuổi thơ; nó là bước nhảy. Và do vậy các nhà
triết học Phật giáo ngày nay rất hạnh phúc, vì khoa học ngày nay cũng nói rằng
không có sự liên tục; mọi thứ đều nhảy, chỉ có bước nhảy. Chúng ta thấy tính
liên tục chỉ bởi vì chúng ta không thể thấy lỗ hổng ở giữa.
Bạn thấy ánh
sáng liên tục nhưng nó là không liên tục. Điện tử vẫn đang nhảy, nhưng lỗ hổng
quá nhỏ đến mức mắt bạn không thể biết được chúng. Nó không phải là liên tục,
nó đang nhảy, nhưng bước nhảy mau lẹ đến mức khi một hạt này chết đi và hạt
khác tới, lỗ hổng ở giữa không thấy được. Chỉ có một cái nhảy bất thần. Bạn
thắp ngọn lửa trong đêm, và sáng ra khi bạn tắt nó đi, bạn sẽ nghĩ rằng bạn
đang tắt đi cùng ngọn lửa đó. Ngọn lửa đã nhảy hàng nghìn hàng nghìn lần. Nó đã
qua đi, đã bay hơi, và ngọn lửa mới đã tới. Nhưng nó trông vẫn liên tục.
Heraclitus đã
nói rằng bạn không bao giờ tắm hai lần trên cùng một dòng sông. Vì dòng sông chảy,
bạn không bao giờ có thể tắm trong nó hai lần được. Phật sẽ nói bạn không thể
tắm dù chỉ một lần, vì dòng sông vẫn đang chảy; vì ngay khi bạn chạm vào bề mặt
nước, nó đã trôi đi rồi. Trước khi bạn đi sâu hơn vào nước, nó đã trôi đi rồi.
Chỉ một bước thôi, và biết bao nhiêu dòng sông đã trôi qua. Và nó bao giờ cũng
là một quá trình nhảy.
Khái niệm nhảy
này tới từ Phật vì ông ấy chưa bao giờ trải qua kundalini. Ông ấy đã trải qua
việc nhảy, từ luân xa nọ sang luân xa kia, cho nên ông ấy nói về bẩy luân xa.
Điều đó cũng là có thể. Tôi có thể tới nhà bạn bằng việc nhảy sao cho tôi chỉ
chạm vào một số điểm. Lỗ hổng có đó, không có sự liên tục.
Mahavira chưa
bao giờ nói về luân xa hay bước nhảy, ông ấy nói về bùng nổ. Bạn là thế này, và
rồi bạn là thế khác. Thậm chí không có nhiều trạm để nhảy. Đây là một con đường
khác - bùng nổ, bạn chỉ nổ tung. Khoảnh khắc này bạn là thế này, và
khoảnh khắc sau bạn là thế kia. Chẳng có liên tục mà cũng chẳng có bước nhảy,
chỉ có bùng nổ. Không có điểm giữa để đi qua.
Trong thiền, có
hai tông phái: một tông phái được biết tới như tông phái đốn ngộ của thiền; còn
tông phái kia là tông phái tiệm ngộ của thiền. Nhưng ngay cả thiền tiệm ngộ
cũng không nói về kundalini. Nó đã dùng một con đường khác. Cho nên chẳng có
nói gì về kundalini trong thiền cả, thậm chí cả trong tông phái tiệm ngộ; con
đường khác đã được dùng.
Thân thể có
biết bao nhiêu con đường. Bản thân nó là một thế giới vĩ đại. Bạn có thể làm
việc qua việc thở, và qua việc thở bạn có thể thực hiện bước nhảy. Bạn có thể
làm việc qua dục, và qua dục bạn có thể thực hiện bước nhảy. Bạn có thể làm
việc qua nhận biết - tức là, trực tiếp từ tâm thức - và bạn có thể thực hiện
bước nhảy. Cách làm việc trực tiếp này trên tâm thức đã từng là một trong những
con đường sâu sắc nhất, nhưng dù chỉ một con đường cũng có thể được dùng theo
biết bao nhiêu cách. Bạn phải hiểu độ phức tạp của điều này.
Chẳng hạn, một
con đường có thể được dùng theo bao nhiêu cách. Người ta có thể dùng nó với ô
tô, người khác dùng nó với xe bò, và người khác nữa chỉ đi bộ. Con đường vẫn là
một, nhưng phương pháp hoàn toàn khác nhau. Cái gì là chung giữa bước đi và
ngồi trên xe ô tô? Chẳng có gì chung cả. Trong ô tô bạn chỉ ngồi và chẳng làm
gì cả. Bạn không làm bất kì điều gì. Cho nên ai đó có thể nói, “Tôi đã đi qua
con đường này chỉ bằng việc ngồi,” mà người đó chẳng nói điều gì sai cả. Nhưng
một người chỉ đi bộ và chưa bao giờ biết tới cách người ta có thể đi qua con
đường này chỉ bằng việc ngồi, sẽ phủ nhận con đường này. Người đó cũng đúng
vậy.
Dù chỉ một con
đường cũng có thể được dùng theo nhiều cách khác nhau - chẳng hạn, nhận biết.
Gurfjieff dùng nó, nhưng ông ấy sẽ gọi nó là nhớ lại, và phương pháp là khác.
Con đường vẫn hệt như thế - tâm thức cần phải được dùng - nhưng như việc nhớ
lại, không phải như nhận biết. Và đâu là sự khác nhau? Nhớ lại nghĩa là bạn
đang trên phố này, chỉ nhớ bạn đang có đó. Đứng lại một lát, nhớ bạn
đang có đó. Nhìn quanh khi hoàn toàn nhớ lại rằng bạn đang có đó.
Đừng bao giờ quên dù chỉ một khoảnh khắc rằng bạn đang có đó.
Nhưng chúng ta
quên, chúng ta chẳng bao giờ nhớ. Nếu tôi thấy bạn, tôi quên mất bản thân mình
và tôi thấy bạn thôi. Nhận biết trở thành một mũi tên, mũi tên kia không có đó.
Gurfjieff nói làm ra mũi tên kép. Bạn đang lắng nghe bài nói. Việc lắng nghe
điều diễn giả nói là mũi tên thứ nhất, và nếu bạn nhận biết về bản thân mình -
về thính giả - thế thì đó là mũi tên thứ hai. Đừng quên bản thân mình khi bạn
đang lắng nghe, nhớ rằng bạn đang lắng nghe. Ai đó đang nói, và bạn đang nghe;
vượt ra ngoài cả hai và nhớ. Làm cho bản thân bạn thành mũi tên kép. Con đường là
một, nhưng phương pháp khác nhau.
Krishnamurti sẽ
nói, “Đừng nhớ theo cách này, nó sẽ trở thành nỗ lực căng thẳng. Nhận biết về
cái toàn bộ. Đừng chọn rằng bạn ở đây và người đó ở kia. Đừng chọn. Để cho nhận
biết bao hàm tất cả. Đừng tập trung vào nó - nhận biết không tập trung. Tôi
đang nói; bạn đang ngồi; tiếng còi ô tô có đó; chiếc xe ô tô đang đi qua... Mọi
thứ có đấy - và nhận biết là không tập trung. Đừng làm nó thành có hướng, làm
cho nó thành không tập trung.” Con đường là một, nhưng phương pháp hoàn toàn
khác.
Mật tông dùng
cùng phương pháp, cùng con đường, theo một cách khác. Cách ấy không thể tưởng
tượng nổi. Họ đã dùng chất say - thuốc gai dầu, charas, ganja, rượu. Và phương
pháp là thế này: cứ say sưa và nhận biết đi. Đừng mất nhận biết. Cứ say sưa, và
nhận biết rằng bạn đang nhận biết. Đừng mất tâm thức. Có những phương pháp mà
trong đó không cách say nào có thể có hiệu quả, cho nên nọc độc rắn được dùng
tới. Rắn được làm cho cắn vào lưỡi. Và khi rắn cắn vào lưỡi mà bạn vẫn nhận
biết, chỉ thế thì bạn mới lấy bước nhảy - nếu không thì không được. Con đường
vẫn thế, nhưng phương pháp hoàn toàn khác.
Trong thực hành
Mật tông này, nếu không chất say nào có tác dụng và bạn có thể vẫn còn có ý
thức, bạn hành xử có ý thức, thế thì cái gì đó đã kết tinh bên trong bạn. Cái
gì đó đã vượt ra ngoài hoá chất thân thể; nếu không hoá chất sẽ tác động vào
bạn. Bây giờ bạn vượt ra ngoài hoá chất. Hoá chất ở đâu đó làm việc bên trong
thân thể, nhưng bạn ở tách xa, nó không thể chạm tới bạn được.
Cho nên có rất
nhiều con đường, và mỗi con đường đều có thể được dùng với biết bao nhiêu
phương pháp. Phương pháp của tôi không trực tiếp liên quan tới bất kì con đường
nào. Nó giống như một chiếc xe có thể bay, bơi và đi trên đường. Bất kì cái gì
là nhu cầu của cá tính của bạn, nhu cầu đó sẽ làm thay đổi phương pháp, con
đường. Bạn có thể gọi nó là đa phương pháp. Nó là gián tiếp, nó không thể là
trực tiếp được. Tôi trao cho bạn phương pháp; thân thể bạn, con người bạn, sẽ
trao cho con đường. Và năng lượng thức tỉnh có thể dùng bất kì con đường nào:
Mật tông, Phật giáo, Jaina, Gurdjieff, Sufi... nó có thể dùng bất kì con đường
nào. Và khi tôi nói điều này, đấy không chỉ là giả thuyết. Khi tôi nói điều này
tôi đã làm việc như vậy.
Mọi người đã
đến tôi, những người đã từng làm việc với nhiều con đường khác nhau. Khi họ
dùng phương pháp này, nó bắt đầu giúp họ trên con đường của họ. Nếu ai đó làm
việc trên kundalini và tới tôi, thế thì người đó làm việc với phương pháp này,
nó giúp người đó trên con đường của riêng mình. Người đó nói, “Phương pháp này
thật kì diệu; phương pháp kundalini trước chẳng có tác dụng mạnh thế và chủ
đích thế.” Và đây chẳng phải là phương pháp kundalini chút nào, nhưng nó mềm
dẻo. Phương pháp sẽ tìm ra con đường. Bạn đang làm việc đó, và tất cả những cái
khác sẽ được thực hiện bởi bản thân phương pháp này.
Đối với thế
giới sắp tới, và cũng cả cho thế giới hôm nay, chỉ những phương pháp mềm dẻo
như vậy mới có thể được dùng vì bây giờ có quá nhiều kiểu người. Trong thế giới
ngày xưa, điều đó không xảy ra. Trong một vùng đặc biệt, một kiểu người đặc
biệt tồn tại. Nếu đó là người Hindu, chỉ có Hindu, không có người Mô ha mét
giáo. Trong thực tế, họ chẳng bao giờ nghe nói về người khác cả. Họ chưa bao
giờ biết về cách thực hành của nhau, cho nên họ chẳng bao giờ lẫn lộn. Họ chỉ
là một kiểu người. Nếu họ là Phật tử Tây Tạng, họ là Phật tử Tây Tạng thôi; họ
chưa bao giờ nghe nói về bất kì cái gì khác. Ước định của mọi người là như
nhau, mọi người đều lớn lên trong cùng một nơi chốn. Cho nên một phương pháp
cần tới cũng có tác dụng.
Bây giờ đó là
tất cả khó khăn. Tâm trí bị lẫn lộn; trong thực tế, không chỉ có một kiểu
người. Mọi người đều là đa kiểu. Có quá nhiều tác động, những tác động mâu
thuẫn nhau. Mọi tôn giáo đều nói, “Đừng học người khác. Đừng đi tới các thầy
khác.” Đấy không chỉ là giáo điều. Có vẻ giống như nó là giáo điều thôi, điều
đấy về cơ bản chỉ để bảo vệ kiểu của họ. Điều này sẽ dẫn tới lẫn lộn không cần
thiết. Không phương pháp nào có ích đầy đủ cả, chẳng cái này cũng chẳng cái
nọ. Điều này đã được thực hiện để cho người ta không bị lẫn lộn.
Nhưng bây giờ
điều đó là không thể được. Bây giờ mọi người đều lẫn lộn, và lại không có giúp
đỡ. Bây giờ không thể có một kiểu, và một kiểu không thể được bảo vệ. Cho nên
chúng ta cần những phương pháp mới không thuộc vào kiểu nào và có thể được mọi
kiểu người dùng. Cho nên phương pháp này là mềm dẻo. Tôi không quan tâm đặc
biệt tới kundalini, mà cũng không quan tâm đặc biệt tới bất kì cái gì, nhưng
quan tâm sâu sắc tới tất cả.
Bạn dùng phương
pháp này, và phương pháp này sẽ tìm ra con đường - con đường có thể làm việc
trong bạn. Tôi để điều này cho phương pháp. Phương pháp sẽ tìm ra con đường, và
nó tìm chính xác hơn là bạn có thể tìm con đường. Nhưng việc tìm kiếm này là vô
thức. Nó chỉ đặt bạn vào trong tình huống, giống như có cháy trong nhà. Bạn
đang trong một tình huống. Nếu bạn có thể chạy, chạy đi. Nếu bạn có thể nhảy, nhảy
đi. Tình huống có đó, và tình huống sẽ đẩy bạn hướng tới bất kì cái gì có thể
cho bạn.
Và tâm trí vô
thức bao giờ cũng chọn con đường ít trở ngại nhất. Đó là toán học về sự cần
thiết, sự tiết kiệm bên trong của tâm trí. Bạn chẳng bao giờ chọn lựa một cách
vô thức bất kì con đường dài nào, bạn bao giờ cũng chọn đường ngắn nhất. Chỉ
với tâm trí có ý thức bạn mới bắt đầu chọn đường chẳng dẫn đến đâu cả, hay chọn
con đường dài đến độ bạn chết trước khi đạt tới. Nhưng vô thức bao giờ cũng
chọn đường ngắn nhất. Cho nên phương pháp này sẽ tạo ra tình huống, còn vô thức
của bạn sẽ lấy con đường mà tiềm năng là kiểu của nó.
No comments:
Post a Comment
Note: only a member of this blog may post a comment.